Tổng số lượt xem trang

Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2013

Yêu Nên Phải Nói



 
by Thang Chu

“Vậy, ai biết điều lành mà không làm là phạm tội.”  Đó là lời dạy của thánh Gia-cơ, em Chúa Giê-su của chúng ta. (Gia-cơ 4:17, BDM Arms of Hope). 


Một trong những điều lành phải làm đó là lên tiếng chống kẻ ác đang làm điều ác.  Đây là điều rất khó vì phải trả giá rất đắc.  Có khi trả bằng sanh mạng.

Theo thánh Gia-cơ, rõ ràng không phải phạm tội mới là phạm tội.  Biết điều lành phải làm mà không chịu làm cũng là phạm tội.  Anh của thánh Gia-cơ, Chúa Giê-su của chúng ta, cũng lên án kẻ thấy điều lành mà không dám làm khi Ngài kể câu truyện người Sa-ma-ri nhân lành (Lu-ca 10).  Luật pháp Mỹ chưa có, nhưng hầu hết các nước Châu Âu đều có luật Sa-ma-ri: Thấy điều lành mà không làm là phạm tội.

Trước khi dám hành động điều lành, phải dám nói lên điều lành và vạch trần điều ác.  Vì phải lên tiếng chống điều ác, thì mới dẫn đến hành động tiêu diệt điều ác.  

Thánh Gia-cơ cảnh cáo việc nói khoe khoang, “Nói như anh chị em là khoe khoang tự phụ, phàm khoe khoang như thế là xấu” (4:16).  Bài viết đây không bàn về việc nói khoe khoang.

Có người nói dám làm mới dám nói.  Thực ra, dám nói mới dám làm.  Vì chỉ có nói mà còn không dám nói, thì làm sao dám làm.  Nói dễ, làm khó.  Cái dễ mà không làm được, sao làm nổi cái khó.  Vì thế, dám nói mới dám làm vì dám nói tức là dám làm.  Vì dám nói là dám lãnh trách nhiệm lời nói của mình, dám đối đầu kẻ ác, dám chiếu ánh sáng vào tăm tối, dám vạch mặt face-off Sa-tan.

Động cơ mãnh liệt chính của dám nói là dám yêu.

Chúa Giê-su dám yêu con người nên dám nói vạch trần giới Pha-ri-si để lãnh án tử hình đónh đinh.  Sứ đồ Gia-cơ em Giăng dám yêu chân lý tin lành nên dám nói để lãnh án tử hình xử trảm (Công Vụ 12:2).  

Bạn và tôi có dám yêu để dám nói sự thật để nhận bản án nhè nhẹ không?  Khoan nói chuyện án nặng quá nặng như Đức Giê-su hoặc sứ đồ Gia-cơ!

Tôi dám.  Bây giờ mới dám!  

Trước khi tôi dám nói tôi dám thế nào, xin thuật việc sứ đồ Phao-lô dám nói cho Ti-mô-thê biết sự thật, “A-lịch-sơn, người thợ đồng đã làm hại ta nhiều.  Cầu xin Chúa báo ứng anh ta tùy theo việc anh làm.  Con cũng phải đề cao cảnh giác về người đó, vì hắn kịch liệt chống đối sứ điệp của chúng ta” (2 Ti. 4:14), và, “Có người vứt bỏ điều đó, nên đức tin bị chìm đắm.  Trong những người ấy có Hy-mê-nê và A-lịch-sơn, ta đã giao họ cho Sa-tan, để sửa dạy họ đừng phạm thượng nữa” (1 Ti. 1:19, 20).

Không những Phao-lô dám vạch mặt kẻ đã làm hại ông, tức là hại hội thánh Chúa, ông còn dám vạch mặt cả giới lãnh đạo là sứ đồ Phê-rơ khi phạm tội đạo đức giả, “Nhưng khi Sê-pha (Phê-rơ) đến thành An-ti-ốt, tôi đã công khai phản đối ông vì thật là đáng trách.  Bởi vì trước khi mấy người của Gia-cơ đến, ông vẫn ăn uống chung  với người ngoại quốc.  Nhưng khi họ đến thì ông rút lui và tách riêng ra vì sợ những người cắt bì.  Những người Do Thái khác cũng hành động đạo đức giả như Phê-rơ đến nỗi cả Ba-na-ba cũng bị lôi cuốn hành động giả dối như thế.  Nhưng khi thấy họ không ngay thẳng theo chân lý của Phúc Âm tôi nói với Sê-pha ngay trước mặt mọi người: Nếu ông là người Do Thái mà sống như người ngoại quốc, không theo cách người Do Thái thì làm sao ông lại ép người ngoại quốc sống theo cách người Do Thái?” (Ga-la-ti 2:11-14).

Đã và sẽ có cỏ lùng mọc chung với lúa trong hội thánh.  Đó là điều huyền nhiệm chắc chắn theo lời Đức Giê-su (Ma-thi-ơ 13).  Đã và sẽ có Sa-tan đội lốt chiên hiền lành thậm chí thiên sứ sáng láng len lỏi vào hội thánh.  Vấn đề là chúng ta phải biết mưu kế của nó và chặn đứng hành động phá hoại hội thánh của nó trước khi bầy chiên tan lạc.  Để làm vậy, phải dám yêu để dám nói.

Hội thánh mới thành lập của chúng tôi đã bị hại và chiên tan lạc từ 35 thành 25 chiên và phải lưu lạc bốn địa điểm trong hai năm.  Tiếc rằng chúng tôi mới move về vùng này nên không ai dám yêu chúng tôi đủ để dám nói như Phao-lô về A-lịch-sơn để mục sư trẻ Ti-mô-thê cảnh giác, nên hội thánh Chúa phải lao đao một thời gian tưởng tan hàng rã ngũ.

A-lịch-sơn đó chính tôi đã gặp lại hôm nay trong lễ nhậm chức của mục sư Lâm Lý Trí.
Cũng lăng xăng chào hỏi người này, tiếp đón người kia, điều khiển người nọ.  Cũng áo vest thắt nơ,  chụp hình người này tay bắt người kia.  Thậm chí được một người đưa cho microphone theo chương trình đã định để hướng dẫn ca đoàn hát và cầu nguyện khai mạc!  Đến màn kịch đó tôi bỏ ra về và dám yêu đủ để dám nói với mục sư Trí, “This guy is a destroyer to the church of God.  I will pray for you and the church.  I did tell you about him already.”

A-lịch-sơn này đã len lỏi vào hội thánh chúng tôi, liên lạc ngầm với ban chấp hành hội thánh Mỹ chủ nhà, mượn video carmera của hội thánh Mỹ, mượn tiền và tài sản của hầu hết các con cái Chúa hội thánh Việt, mượn tiền người ngoại khi họ đến thăm hội thánh, nói xấu người này chia rẽ người kia, hẹn giúp đỡ người ta rồi không đến để người ta phải chờ cả tiếng đồng hồ.  Những điều đó chỉ là một phần nhỏ A-lịch-sơn này đã làm.  Ôi! Không biết bao nhiêu điều tệ hại kể không hết mà A-lịch-sơn này đã làm cho hội thánh lẫn từng mỗi con cái Chúa!  Nhiều hội thánh quanh vùng đây đã từng bị quấy rối: hội thánh Orange do mục sư Nguyễn Thỉ chủ tọa, hội thánh Thanh Lễ do mục sư Đoàn Linh.

Chính chị ruột của A-lịch-sơn này từng nói với tôi, “Mục sư phải cẩn thận đừng để cho nó làm gì trong hội thánh.  Nó đi đến đâu là phá tan hội thánh Chúa đến đó. Tôi là chị ruột nó mà nói vậy là mục sư hiểu rồi.”  Tôi trả lời, “Tôi luôn tin vào cơ hội thứ hai.”  Nhưng cơ hội thứ hai đó không bao giờ đến với A-lịch-sơn này, là người chuyên tìm đến những hội thánh mới thành lập để trục lợi và phá hoại, đặc biệt những hội thánh đang “xài ké” nhà thờ Mỹ.

Tôi viết bài này để gióng chuông cho các hội thánh, các mục sư, như Phao-lô đã cảnh cáo Ti-mô-thê về A-lịch-sơn xưa.  Và nay, A-lịch-sơn hiện đại này tên Mỹ là: Richard Hua, tên Việt: Hứa Trung Quý.  

Đêm nay tôi sẽ ngủ ngon hơn, vì biết mình đã thấy điều lành và dám làm điều lành bằng bước khởi đầu là dám nói.  

Vì yêu nên phải nói.  Không nói nghĩa là không yêu.  Và, vì không yêu nên không nói.  Tức là, yêu mới nói.

Bạn có muốn ngủ ngon đêm nay không?  Hãy dám yêu để dám nói trước khi lên giường gác đầu lên gối thay cho gác tay lên trán.

Sunday, July 14, 2013

Thứ Hai, 1 tháng 7, 2013

Miếu Quan Lau



By Thang Chu

www.mondoJesus.blogspot.com  Xứ sở Việt vốn nhiều đền lắm miếu.  Trong hàng những miếu nổi tiếng nhất bao gồm Miếu Quan Công, còn gọi là Miếu Quan Vũ hoặc Miếu Quan Đế hoặc Miếu Quan Thánh hoặc Chùa Ông. 

Hằng năm Miếu có hai lễ cúng lớn vào ngày 24 tháng 6 Âm Lịch là lễ quan trọng nhất và lễ cúng rằm tháng Giêng.  Ngoài ra còn có ngày cúng khác: cúng Lưu Bị, Quan Vũ, cúng Bà Thiên Hậu. (http://ttvhq5.com.vn/newsdetail107_773_mieuquandenghiaanhoiquan.aspx)  (https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a_%C3%94ng_%28Ngh%C4%A9a_An_H%E1%BB%99i_Qu%C3%A1n%29)



Tuy nhiên, Miếu Quan Công chủ yếu thờ nhân vật Quan Công trong Tam Quốc Chí, được khắc chữ trên miếu như: “Vạn cổ nhất thân” (Xưa nay chỉ có một), “Vạn cổ tinh huy” (Sao sáng muôn đời) hoặc:

Khí nghĩa lòng trung, đức Ngài cao sánh trời đất
Giúp Lưu, phò Hán, uy thần lừng lẫy bao đời

Miếu Quan Công không những lan tràn từ Nam chí Bắc Việt Nam mà còn vượt biên qua tới Mỹ, chễm chệ trong những nhà hàng sang trọng khu Bolsa qua dạng Miếu mini.

Đã biết bao tiền của và thì giờ dân Việt đổ vào Miếu Quan Công!  Đã biết bao mê tín dị đoan đã kéo dân Việt khỏi vòng tay yêu thương của Thiên Chúa để rơi vào vòng xiết của Miếu Quan Công!

Thế nhưng Miếu Quan Công không tác hại bằng Miếu Quan Lau, là hai cha con ruột mà tới nay không ai biết.  Tác hại cho xã hội đã đành, đáng nói là tác hại ghê gớm, phải nói là ghê gớm, cho hội thánh của Đức Chúa Trời, mà Chúa Giêsu đã mua bằng huyết Ngài.  Sau đây là những lý do.

Miếu Quan Công hữu hình.  Miếu Quan Lau vô hình.  Hội thánh Chúa biết rõ và tuyệt đối giữ điều răn thứ nhất và thứ hai của Ngài nên Miếu Quan Công không có cơ may luồn vào hội thánh.  Thế nên, Sa-tan là cựu thiên sứ trưởng, giả làm thiên sứ sáng láng lập ra Miếu Quan Lau vô hình len lỏi vào con chiên, chấp sự, đặc biệt chỉa mũi dùi thọc vào mục sư.  Người càng cao chức trọng càng bị mê hoặc bởi Miếu Quan Lau. 

Như Miếu Quan Công  được khắc những câu thần thơ thánh, thì người con ruột Miếu Quan Lau cũng chẳng kém phần đại ngữ:
           
Khí dũng lòng gan, đức ngài thiêng quá mấu
Giúp Giêsu, phò giáo hội, uy độc hành


Miếu Quan Công có thơ vịnh bởi cha.  Miếu Quan Lau có thơ vịnh bởi con. 

Tả tướng quân Nguyễn Nghiễm, thân phụ đại thi hào Nguyễn Du, đã khắc một chùm ba bài thơ chữ Hán lên biển gỗ Miếu Quan Công tại Hội An như sau:

Sư để Hội An phố đề Quan Phu Tử miếu

Phiên âm:
Niết ngột Viêm đồ khảng khái thân
Đào viên huynh đệ tức quân thần
Trực tương trung nghĩa sư thiên cổ
Vô luận anh hùng địch vạn nhân
Tâm thượng Cao, Quan hoàn nhất thống
Mục trung Ngô, Nguỵ thất tam phân
Chí kiêm vạn quốc đồng chiêm phụng
Phỉ trực nguy nhiên hải thượng thần
Dịch nghĩa:
Đưa quân đến phố Hội An đề miếu Quan phu tử
Cơ đồ nhà Hán chông chênh, (ngài) tỏ tấm thân khảng khái,
Anh em nơi vườn Đào, cũng là vua tôi (của nhau),
Nêu tấm gương trung nghĩa, thầy của muôn đời.
Chẳng kể anh hùng, sức địch vạn người,
Tấm lòng hướng về Cao, Quang, mong giang sơn quy về một mối
Trong mắt nước Ngô nước Ngụy không còn chia làm ba
Cho đến ngày nay, muôn nước cùng chiêm bái kính phụng
Vòi vọi nguy nga như vị thần trên biển.



Điểm đặc biệt là Miếu Quan Công, miếu cha ruột, được cha ruột của đại thi hào Nguyễn Du khắc thơ vào cột. Miếu Quan Lau, miếu con ruột, được con ruột, chính đại thi hào Nguyễn Du, khắc thơ vào lòng:

Có tài mà cậy chi tài,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.

Điểu khác biệt giữa cha và con là cha khắc thơ để khen Miếu Quan Công; con khắc thơ để cảnh cáo người thờ Miếu Quan Lau.

Miếu Quan Công có tổ có tông.  Miếu Quan Lau không tông không tổ.  Dù là cha con ruột ở trần thế, Miếu Quan Công hữu thân hiện xác.  Trái lại, Miếu Quan Lau xuất xứ vô hình vô ảnh.  Đây là huyền nhiệm, bí mật, nên thật nguy hiểm.  Cực kỳ nguy hiểm khi đối diện kẻ thù vô hình vô ngã. 

Thật ra, truy cho cùng, lùng cho kỹ, nghĩ cho tới, bới cho ra, tra cho tận, lận cho sát, tát cho cạn, gạn cho sạch, vạch cho rõ, thì: Miếu Quan Công mang dòng máu Trung Quốc, nhưng Miếu Quan Lau mang dòng Máu Quan Liêu. 

Máu Trung Quốc có DNA để truy tìm thủ phạm .  Máu Quan Liêu có DAN (đúng giọng Bắc là GIAN) nên thủ phạm khôn ngoan, gian hùng đáo để,  có thượng đẳng tổ sư là cha-của-sự-nói-dối, Sa-tan, thật khó tìm khó bắt. 

Vì những lý do đó, Miếu Quan Lau, nguyên dòng Máu Quan Liêu, đã len lỏi chễm chệ lập đàn dựng ổ giữa hội thánh.  Tệ hơn và nguy hơn nữa, ngất nghễu tọa lạc phòng họp mục sư và chấp sự.

Than ôi!  Người Việt đã lập Miếu Quan Công thờ dòng máu Trung Cộng, lại còn lập Miếu Quan Lau để nô lệ dòng Máu Quan Liêu!

Không chỉ đáng sợ vậy thôi, Miếu Quan Lau bắt rễ tận xứ thánh thưở xa xưa.  Các sứ đồ của Đức Giê-su, dù không thờ Miếu Quan Công, lại thờ Miếu Quan Lau.

Các môn đồ giành nhau làm quan lớn, mức quan tể tướng và thượng thư, một bên hữu, một bên tả (Ma-thi-ơ 21:20-27).  Nhưng Đức Giê-su, Vua của muôn vua, Chúa của muôn chúa, Thần của muôn thần, Quan của muôn quan, đã cứu thoát họ khỏi Máu Quan Liêu bởi Máu Chiên Con: “Con Người đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ và hiến mạng sống mình cứu chuộc mọi người.”

Ma-ra-na-tha!  
July 1, 2013